Sưu tầm

Màu sắc văn kinh tế

12/01/2021
          Heading south là một thành ngữ rất dễ hiểu, hướng về phương nam, dùng cho chim di trú cũng được mà cho gia đình đi nghỉ mát cũng ổn. Nhưng trong câu sau, mọi chuyện không còn đơn giản như thế: “They face huge losses as property sales and the insurance business that goes with them head south”. Đây là đang nói về các công ty bảo hiểm địa ốc, năm nay thua lỗ vì doanh số địa ốc và cơ hội bán bảo hiểm kèm theo đã ra đi nơi khác, đã sút giảm nghiêm trọng.

            Đọc văn viết về kinh tế, đôi lúc cần thận trọng vì có nhiều từ quá quen thuộc lại mang một ý nghĩa hoàn toàn mới, có thể gây khó khăn hay làm lạc hướng người đọc. Ví dụ đơn giản nhất là hai từ appreciation, thường được hiểu là sự tán thưởng hay lòng biết ơn. Nhưng trong kinh tế, nó có nghĩa là tăng giá, được giá như câu: “Speculators earned enough from rapid capital appreciation to repay the loans”. Từ thứ hai depreciation, ngoài nghĩa xuống giá, sụt giá, mất giá, còn là chuyện khấu hao trong sản xuất (ít thấy dùng từ amortization).

            Trong kinh doanh, red ink đâu phải là mực đỏ dù ngày xưa những khoản lỗ từng được viết bằng mực đỏ. “And that red ink doesn’t even include provisions for mounting bad loans”. Một báo cáo cho biết tám ngân hàng Hàn Quốc lỗ gần 100 triệu USD trong sáu tháng đầu năm nay. Nhưng số thua lỗ đó thậm chí chưa tính đến những khoản nợ vay khó đòi đang gia tăng.

             Go-go là một từ thoạt tiên xuất phát từ sàn nhảy, sau đó chỉ lớp trẻ sống phóng túng như điệu nhảy cùng tên. Nay khi đi vào văn kinh tế, như câu “In Asia’s go-go 1980s and early 1990s, loans for property or stock market punter (punter: khách hàng) were not a problem”, go-go chỉ não trạng thoải mái trong kinh doanh, ví dụ lúc đi vay để kinh doanh địa ốc hay đặt cược vào thị trường chứng khoán là chuyện dễ như trở bàn tay. Go-slow, danh từ trong quan hệ chủ thợ mang nghĩa công nhân phản đối chủ, cố tình giảm tốc độ sản xuất.

             To write trong cụm từ write off vẫn mang nghĩa viết, nhưng là viết lại bản cân đối tài sản, đưa một khoản từ bên có vào mục thua lỗ. Cho nên he has written off the shipment là ông này đã xóa chuyến hàng xem như mất trắng.

               Một từ khác cũng không kém phần quen thuộc, cap, danh từ là chiếc mũ, động từ thường là đóng nắp. Nhưng câu “Malaysia capped lending to the real estate sector at 20% of total loans but that cap is difficult to enforce” thì cũng chẳng có mũ, cũng không có nắp. Dù Malaysia giới hạn cho vay vào thị trường địa ốc không quá 20% tổng doanh số cho vay nhưng mức hạn chế này khó mà ép thi hành.

                Trong thành ngữ cũng vậy, những thành ngữ như go under thường được hiểu là chịu thua, nhường bước hay chìm nghỉm (the ship went under). Nhưng nói về doanh nghiệp, phải hiểu là phá sản. Over the past year, major conglomerates have gone under.

                 Ngược lại go public thường là công khai một chuyện gì đó nhưng trong kinh doanh, một doanh nghiệp goes public là lúc doanh nghiệp này được cổ phần hóa, bán rộng rãi cổ phiếu cho người ngoài.

                  Ngay trong văn kinh doanh chó những từ thuần kinh tế cũng thay đổi nghĩa theo văn cảnh. Như tax là thuế, overtax là đánh thuế cao. Nhưng the overtaxed, and incompetent system of corporate audits thì đang phê phán các hãng kiểm toán thiếu năng lực mà hay làm việc quá tải.

                   Hai từ thường được đưa ra làm ví dụ cho sự thay đổi ý nghĩa của từ thông dụng dùng trong văn kinh tế là bull và bear. Trong thị trường chứng khoán, chúng không còn là bò hay gấu nữa mà là hai thái độ trái ngược, một bên tin chắc cổ phiếu sẽ lên giá (bullish, sentiment) còn một bên bi quan cho rằng cổ phiếu sẽ tụt giá, the stock market was weighed down (*) by a combination of bearish factors.

 (*) To be weighed down: trĩu nặng bởi

(Sưu tầm)